Hiện nay nhiều người dùng sai từ Hán - Việt vì không hiểu nghĩa của chúng chứ không phải vì không biết chữ Hán. Chúng ta chỉ cần biết nghĩa chứ không cần biết mặt chữ Hán của những từ Hán - Việt (từ Việt gốc Hán). Chương trình học hiện nay vốn đã nặng nề, dạy thêm chữ Hán lại càng thêm nặng nề. Do vậy, để học sinh hiểu sâu sắc hơn tiếng Việt chỉ cần dạy từ Hán - Việt.
Hiện nay nhiều người dùng sai từ Hán - Việt vì không hiểu nghĩa của chúng chứ không phải vì không biết chữ Hán. Chúng ta chỉ cần biết nghĩa chứ không cần biết mặt chữ Hán của những từ Hán - Việt (từ Việt gốc Hán). Chương trình học hiện nay vốn đã nặng nề, dạy thêm chữ Hán lại càng thêm nặng nề. Do vậy, để học sinh hiểu sâu sắc hơn tiếng Việt chỉ cần dạy từ Hán - Việt.
Không chỉ Việt Nam, các nước lân cận quốc gia Trung Quốc cũng chịu nhiều ảnh hưởng và giao lưu với ngôn ngữ Trung Quốc, có thể kể đến như Hàn Quốc hay Nhật Bản. Hình dung sự tiến hóa của các giống linh trưởng từ một nguồn cội chung đến khi có sự khác biệt đáng kể như ngày nay để thấy ngôn ngữ dù có xuất phát từ chung một gốc gác cũng luôn vận động và phát triển không ngừng, đến nỗi diện mạo đã có nhiều đổi khác. Nhiều từ ngữ đích thực có nguồn gốc Hán Việt nhưng thực ra, sự phát sinh, tồn tại và sử dụng đã thoát li độc lập với Hán ngữ.
Trong mối quan hệ hai chiều giữa tiếng Hán và tiếng Việt, xuất phát từ cùng một gốc nhưng yếu tố ngôn ngữ đó, hoặc là đã biến đổi trong tiếng Việt nhưng còn được bảo lưu trong tiếng Hán (ví dụ số 1) hoặc là vẫn được bảo lưu trong tiếng Việt nhưng đã thay đổi trong tiếng Hán, hoặc là đã biến đổi trong cả hai ngôn ngữ khác với gốc ban đầu (ví dụ số 3).
Ví dụ số 1, từ Hán Việt mang sắc thái nghĩa mới, ví dụ 困難 phiên âm Hán Việt "khốn nạn" khác nghĩa hoàn toàn với nghĩa hiện đại trong tiếng Trung – khó khăn, ngoài ra không còn nghĩa khác. Thực tế là từ 困難 khi mới du nhập vào tiếng Việt vẫn mang sắc thái nghĩa "khó khăn" như trong tiếng Hán hiện đại ngày nay, chẳng hạn Tác phẩm Les Misérables bản dịch đầu tiên tại Việt Nam, xuất bản năm 1926 vẫn còn được dịch là "Những kẻ khốn nạn".
Ví dụ số 2, tiếng Việt dùng từ gốc Hán cũ tạo từ mới mà bản thân tiếng Hán không có, ví dụ từ "Dân số" Hán tự là 民數 dùng chỉ số lượng người dân, nhưng tiếng Hán không có từ này, để chỉ khái niệm tương đương, dùng 人數 (phiên âm Hán Việt "nhân số" – tiếng Việt rất hiếm hoặc không dùng) hoặc 人口 (phiên âm Hán Việt "nhân khẩu" – tiếng Việt cũng có dùng).
Ví dụ số 3, tiếng Việt và tiếng Hán dùng các từ vốn có khác nhau để chỉ cùng khái niệm mới xuất hiện. Ví dụ để biểu khái niệm "một tổ hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh bên ngoài của một hệ thống hoặc một cá thể, sự vật nào đó", tiếng việt dùng từ "môi trường" (媒場 – tiếng Hán không dùng từ này) tiếng Hán dùng từ 環境 (phiên âm Hán Việt là hoàn cảnh).
Trong mỗi quan hệ đa chiều giữa các ngôn ngữ cùng vay mượn tiếng Hán thể hiện sự giao thoa, vay mượn của các yếu tố có nguồn gốc Hán ngữ, qua lại ở các ngôn ngữ khác thông qua tiếng Hán, hoặc trực tiếp với nhau không thông qua tiếng Hán. Chẳng hạn, tiếng Nhật và tiếng Hàn cũng có sự sáng tạo trên nền Hán ngữ ở các khía cạnh như tiếng Việt nêu trên, rồi nhập ngược lại tiếng Hán, hoặc nhập sang ngôn ngữ khác. Ví dụ, người Nhật dùng từ 茶 và từ 道 sáng tạo ra khái niệm 茶道 (茶の湯 trà đạo) để biểu thị lề lối, văn hóa thưởng thức trà, sau đó du nhập ngược trở lại tiếng Hán, tiếng Việt lại tiếp tục vay mượn. Như vậy, từ này hình thức là một từ Hán Việt, nhưng thực ra lại có nguồn gốc Nhật Bản. Từ Thiếu tá (少佐) có ý nghĩa tương đương trong tiếng Nhật, nhưng bản thân tiếng Hán không có, mà dùng từ 少校 (phiên âm Hán Việt "Thiếu hiệu", cả tiếng Việt và tiếng Nhật không dùng từ này để chỉ ý nghĩa tương tự). Tiếng Hàn dùng chữ 기사 (Hán tự 技師 – phiên âm Hán Việt là "kỹ sư") cùng chỉ khái niệm tương đương "kỹ sư" trong tiếng Việt, trong khi tiếng Hán không dùng từ này mà dùng từ 工程師 (phiên âm Hán Việt: Công trình sư).[36]
(Ngày ngày viết chữ) Từ Hán Việt trong Hán Việt là một lớp học “trao phương pháp và công cụ” – nhằm giúp học viên hiểu và sử dụng từ Hán Việt chuẩn xác hơn.
Từ Hán Việt là một lớp từ thú vị và có nhiều điều đáng bàn. Lớp từ này, với một người chưa tiếp xúc nhiều, để thấu hiểu nó cần phải dụng công dụng tâm khá lớn. Thành thử, mặc dù đã có lớp Tiếng Việt – Hiểu sâu Viết sắc bàn về những bình diện khác nhau trong tiếng Việt, bao gồm bình diện từ vựng, Ngày ngày viết chữ vẫn tổ chức thêm lớp Từ Hán Việt trong tiếng Việt để có nhiều thời gian trao đổi với các bạn học viên hơn.
Về đại thể, có một số vấn đề lớn như sau:
Đầu tiên là vấn đề ngữ âm – ngữ nghĩa của từ Hán Việt. Chẳng hạn, chúng ta biết nhậm = nhiệm, nhưng người Việt chỉ nói nhậm chức chứ không nói nhiệm chức, nói chủ nhiệm chứ không nói chủ nhậm.
Hiện nay, tiếng Việt dùng chữ Quốc ngữ Latinh. Chữ này có một hạn chế là chỉ biểu đạt thuần tuý về cách đọc mà không biểu thị ý nghĩa. Do đó, đối với những hiện tượng đồng âm khác nghĩa, nhiều người có thể hiểu nhầm, không phân biệt được nghĩa của từ. Khoá học này sẽ hướng dẫn các bạn cách tra cứu để xác định nghĩa, qua đó giúp các bạn thấy rằng “nhân duyên” và “hôn nhân” là hai chữ “nhân” khác nhau, “phong tục” và “phong phú” là hai chữ “phong” khác nhau, hay hai chữ “thụ” trong “nam nữ thụ thụ bất thân” cũng là hai chữ “thụ” khác nhau.
Thứ hai là vấn đề từ vựng – ngữ pháp của từ Hán Việt. Đây là vấn đề sử dụng từ đơn và từ ghép Hán Việt cũng như cách Việt hoá các yếu tố Hán Việt. Vấn đề này cũng bao gồm những quy tắc kết hợp, quy tắc xếp đặt trật tự các thành phần cấu tạo từ và ngữ Hán Việt.
Chẳng hạn, người Việt nói hoa quả, cũng nói hoa trái, nhưng lại chỉ nói trái cây mà hầu như không nói quả cây. Thế nhưng, đồng thời lại có cả cây ăn trái và cây ăn quả. Vậy, các yếu tố Hán Việt là hoa và quả được Việt hoá và kết hợp như thế nào? Hoặc một trường hợp khác, nữ bác sĩ và bác sĩ nữ có giống nhau không? Khi nào thì dùng nữ bác sĩ và khi nào thì dùng bác sĩ nữ?
Thứ ba, lớp học Từ Hán Việt trong Hán Việt sẽ bàn luận về những trường hợp sử dụng từ Hán Việt trong thực tế mà nhiều khi bị cho là thiếu chuẩn mực. Chẳng hạn, có người nói duy nhất một là thừa, còn duy nhất hai/ba/bốn… là sai. Vậy thật ra có thừa không, có sai không? Giải thích thế nào cho hợp lý? Người viết, người biên tập nên xử lý thế nào khi gặp các vấn đề như thế này?
Nhìn chung, việc hiểu đúng nghĩa của từ Hán Việt, sử dụng đúng quy tắc ngữ pháp liên quan đến từ Hán Việt có ý nghĩa rất lớn trong việc giúp những người mới tiếp xúc công việc viết/dịch/giảng dạy tiếng có thể dùng từ chuẩn mực hơn, hiểu rõ hơn về từ ngữ mà mình thường sử dụng. Kỳ thực, qua quan sát nhiều lớp học viên, Ngày ngày viết chữ nhận thấy từ Hán Việt là lớp từ dễ dùng sai nhất, thậm chí là sai ở những từ phổ biến nhất.
Ngoài những vấn đề cốt lõi trên, lớp học còn bàn về những vấn đề hết sức đáng lưu ý khi dịch từ tiếng Hán (tiếng Trung) sang tiếng Việt. Những khó khăn thường gặp khi dịch Hán sang Việt là gì, cách giải quyết như thế nào, v.v..
Bên cạnh đó, lớp học còn thảo luận về thành ngữ Hán Việt, một số tác phẩm thơ văn chữ Hán và vài câu chuyện về văn hoá, xã hội, triết lý của người Việt thể hiện ý nhị qua chữ nghĩa (mà có thể bạn vẫn gặp, vẫn dùng nhưng không nhận ra).
Những bạn đang làm hoặc có ý định làm content writing, copywriting, biên dịch, biên tập, làm sách, dạy tiếng Việt cho người nước ngoài,… rất phù hợp để học lớp này. Các bạn sẽ hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa và cách dùng từ Hán Việt. Từ đó, khi vận dụng vào công việc của mình, các bạn có thể chọn lọc, dùng và tạo từ đúng đắn, thoả đáng hơn. Những bạn quan tâm từ Hán Việt và tiếng Việt nói chung cũng có thể học.
Có nhiều bạn hỏi là “em không biết chữ Hán thì có học được không”. Đương nhiên là học được, vì lớp lấy người học chỉ biết chữ Quốc ngữ làm trọng tâm nên không yêu cầu phải biết chữ Hán.
Kết quả từ các khóa trước cho thấy, những bạn đã học qua khóa “Từ Hán Việt trong tiếng Việt” rồi, về sau khi hành văn hiếm khi mắc lỗi dùng từ không đúng nghĩa nữa. Với cả, gặp những trường hợp nhập nhằng, không biết viết như vầy là đúng hay sai, các bạn cũng biết hướng xử lý, gọn ghẽ đâu ra đấy.
Một số nội dung cơ bản của khoá học:» Quá trình tiếp xúc ngôn ngữ Việt – Hán (từ xa xưa đến hiện nay).» Từ đơn và từ ghép gốc Hán cùng cách thức người Việt Việt hoá từ gốc Hán.» Biến thể từ vựng Hán Việt trong tiếng Việt.» Phân biệt nghĩa của những từ Hán Việt đồng âm thường dùng.» Nguồn gốc cấu tạo của một số chữ Hán và các công cụ tra cứu.» Thành ngữ gốc Hán và một vài trường hợp thơ văn chữ Hán.» Những trường hợp dùng từ ngữ Hán Việt sai hoặc bị cho là sai và cách xử lý.» Những vấn đề thường gặp khi dịch từ tiếng Hán (tiếng Trung) sang tiếng Việt.» Những câu chuyện về văn hoá, xã hội, triết lý của người Việt ngầm thể hiện qua chữ nghĩa.» Thảo luận và bài tập trên lớp cùng một vài bài tập ở nhà.
– Khoá học gồm 10 buổi.– Học vào tối thứ Ba hằng tuần, từ 19 giờ đến 21 giờ 30 (hoặc 22 giờ, tuỳ theo độ phức tạp của bài học).– Khoa mới dự kiến trở lại vào năm 2025.– Học phí: 5.000.000 đồng/khoá.
– Người hướng dẫn: Chị Nguyễn Thuỳ Dung, người sáng lập và điều hành Ngày ngày viết chữ.
Lớp này học 10 buổi. Từng có học viên thắc mắc làm sao có thể học hết từng ấy từ Hán Việt trong 10 buổi. Đương nhiên là chúng ta không thể học hết được chỉ với chừng ấy thời lượng. Nhưng lớp học này cũng không nhằm mục đích dạy hết thảy từ Hán Việt, lớp học này chỉ trao phương pháp và công cụ, ra bài tập để học viên thực hành. Những phương pháp, công cụ và bài tập thực tế này sẽ giúp học viên sau khi rời lớp học vẫn có thể tự học và tự mình xử lý các trường hợp chữ nghĩa liên quan đến từ Hán Việt.
– Nghe giảng và trao đổi trực tiếp với giảng viên qua Google Meet.– Làm bài tập và thảo luận thêm qua Google Classroom (sẽ được hướng dẫn cụ thể sau khi đăng ký).– Sau thời gian học có bất kỳ vấn đề chữ nghĩa nào đều có thể hỏi giảng viên. Khóa học “bảo hành trọn đời” nên chỉ cần có thắc mắc bạn đều có thể hỏi và sẽ luôn được giải đáp.
LỘ TRÌNH CÁC KHOÁ HỌC VIẾT CỦA NGÀY NGÀY VIẾT CHỮ